Sáng kiến Đánh giá tài nguyên nước (Valuing Water Initiative – VWI) được đưa ra vào năm 2019 như là kết quả của Hội đồng cấp cao về nước từ Liên hiệp quốc và Ngân hàng Thế giới. Sáng kiến này đưa ra 5 nguyên tắc đánh giá tài nguyên nước nhằm tìm kiến sự thay đổi có tính hệ thống về vai trò của nước trong quá trình ra quyết định, để đảm bảo một thế giới có nguồn nước bền vững.
Giá trị của nước với xã hội được củng cố bởi cơ sở hạ tầng thủy lợi phục vụ việc tích trữ hoặc vận chuyển nước. Tuy nhiên giá trị của nó vượt xa chi phí của chính cơ sở hạ tầng, và còn bao gồm nhiều lợi ích đa dạng khác.
Đến năm 2030, đầu tư vào cơ sở hạ tầng nước và vệ sinh cần khoảng 0,9 – 1,5 nghìn tỷ USD mỗi năm, tương ứng với khoảng 20% tổng nhu cầu cho mọi loại hình đầu tư cơ sở hạ tầng. Trong đó, khoảng 70% tổng vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng này ở khu vực Nam bán cầu, với phần lớn dành cho khu vực đô thị đang phát triển nhanh. Tại các nước phát triển, lượng lớn đầu tư để cải tạo và nâng cấp.
Cân nhắc tổng tiền đầu tư vào cơ sở hạ tầng nước, có thể kỳ vọng một cách hợp lý rằng việc xác định giá trị của chi phí – lợi ích đã được phát triển, tiêu chuẩn hóa (ở một mức độ nào đó), và được áp dụng rộng rãi. Nhưng không phải vậy, các lợi ích xã hội thường không được định lượng. Việc định giá cơ sở hạ tầng thủy lợi tập trung chủ yếu vào chi phí và lợi nhuận tài chính, vì thế các chi phí gián tiếp như là chi phí môi trường và xã hội thường bị bỏ qua vì bị coi là ngoại ứng.
Ví dụ, khả năng cơ sở hạ tầng về nước tiếp tục cung cấp lợi ích trong các tình huống bình thường cũng như bất thường có thể được định nghĩa như giá trị của khả năng phục hồi, thứ được đánh giá rất cao. Giá trị này được phản ánh trong các chi phí tránh được từ lỗi hệ thống hoặc tốc độ phục hồi.
Định giá cơ sở hạ tầng nước thường quá chú trọng vào phân tích chi phí – lợi ích, nhưng ở cấp độ thực nghiệm, giá trị của nó vượt ra ngoài chi phí của chính cơ sở hạ tầng và mang lại nhiều lợi ích đa dạng khác. Về cơ bản, việc xác định giá trị của cơ sở hạ tầng nước thuộc về quản trị tốt, nên ít nhất, cần thực hiện quản trị tốt để việc đánh giá được chính xác.
Thủy điện Sơn La ở Việt Nam
Thủy điện Sơn La là nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam tính đến năm 2021. Nhà máy nằm trên sông Đà chảy qua địa phận tỉnh Sơn La. Nhà máy có công suất lắp máy 2.400 MW, với 6 tổ máy, khởi công xây dựng vào năm 2005, và sau 7 năm xây dựng đã hoàn thành. Nhà máy được thiết kế kiểu hở, bố trí sau thân đập. Giai đoạn thi công cao điểm huy động tới 13 nghìn người. Để thi công nhà máy hơn 20.000 hộ dân của ba tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu phải di dời.
Nguồn: UNESCO. Valuing hydraulic infrastructure. Truy cập tại: http://www.unesco.org/reports/wwdr/2021/en/valuing-hydraulic-infrastructure
* Ảnh bìa: VnExpress