Chia sẻ cơ hội, lắng nghe ý kiến trong việc giải quyết vấn đề rác thải tại thành phố Huế

Ngày 22/12/2023, CSRD phối hợp với Công ty Môi trường và Công trình đô thị Huê – HEPCO tổ chức buổi tọa đàm “Đóng góp của phụ nữ vào giải quyết vấn đề rác thải tại Thành phố Huế”. Mục tiêu của buổi toạ đàm nhằm chia sẻ các kết quả nghiên cứu nội bộ của CSRD; tạo ra không gian thảo luận về cơ hội hợp tác giữa các bên liên quan trong việc thúc đẩy giải quyết hiệu quả vấn đề rác thải tại tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung và thành phố Huế nói riêng.

Ông Trần Quốc Khánh – Giám đốc HEPCO phát biểu tại buổi tọa đàm.

Buổi tọa đàm với sự tham gia của 38 đại biểu đến từ các Sở, ban ngành tỉnh T T Huế, đại diện HEPCO, đại diện lãnh đạo 5 phường, hội Phụ nữ 5 phường, các chị lao công và những người thu mua ve chai trên địa bàn tỉnh. Tại buổi tọa đàm, CSRD đã chia sẻ kết quả nghiên cứu do CSRD thực hiện trong thời gian qua, lắng nghe những câu chuyện của các chị lao công và các cô thu mua ve chai, thảo luận về sơ đồ chuỗi rác thải nói chung ở thành phố Huế. Rất nhiều những thông tin, kế hoạch và dự án được các bên tham gia chia sẻ, trao đổi tạo nên những cơ hội hợp tác, làm việc liên quan đến vấn đề giảm thiểu rác thải tại thành phố Huế.

Trần Thị Ngọc Liên – Nhân viên truyền thông HEPCO chia sẻ hiện bản thân chị đang thành lập các đội, nhóm sản xuất huân chương, huy hiệu từ việc sử dụng tái chế các nắp đậy của chai nhựa.
Các cô lao công, thu mua ve chai thông qua hoạt động nghiên cứu và tọa đàm phần nào hiểu được vai trò của mình trong chuỗi rác thải, tìm ra được những đầu mối liên kết để bán/ thu mua các chất thải tái chế nhằm đóng góp nhiều hơn nữa trong việc giảm thiếu rác thải nhựa, bảo vệ môi trường.

Bảo vệ môi trường gắn liền với phát triển bền vững đang là vấn đề đặt ra trên toàn thế giới, trong đó có các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Trong những năm gần đây, dân số không ngừng tăng và mức sống cũng ngày càng tăng tương đồng với sự phát triển kinh tế – xã hội tại Việt Nam, đặc biệt là các thành phố lớn. Năng lực thu gom và xử lý rác thải không kịp thích ứng với bối cảnh này, hầu hết các bãi chôn lấp rác cho các thành phố đều quá tải, trong đó có bãi rác Thuỷ Phương cho thành phố Huế. Nguy cơ gây ô nhiễm môi trường do chất thải gây ra đang dần trở thành vấn đề cấp bách, đòi hỏi phải có các biện pháp quản lý khắc phục để bảo vệ môi trường trong khi vẫn phát triển kinh tế – xã hội.

Trong bối cảnh trên, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Xã hội CSRD đã tiến hành nghiên cứu hành động có sự tham gia của các cô ve chai và các cô lao công về vai trò và đóng góp của phụ nữ trong chuỗi giá trị rác thải – tái chế tại thành phố Huế. Trong chuỗi giá trị rác thải này, Công ty Cổ phần Môi trường và Công trình Đô thị Huế HEPCO đóng vai trò quan trọng, không chỉ là đơn vị chính giải quyết vấn đề rác thải tại thành phố Huế, mà còn là nơi quản lý trực tiếp lực lượng lao công.

Truyền thông tại cộng đồng mang nhiều ý nghĩa thiết thực

Từ ngày 22-28/11/2022, Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Xã hội phối hợp cùng Hội Phụ nữ các xã đã tổ chức hoạt động truyền thông tại 05 xã là xã Quảng Thái, Quảng Lợi, Phú An, Phú Xuân và Hải Dương – Thừa Thiên Huế.

Hoạt động nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng liên quan đến Giảm thiểu rủi ro thiên tai và thích ứng Biến đổi khí hậu dựa vào hệ sinh thái.

Thông điệp cụ thể được các nhóm cộng đồng đưa ra trong các tiết mục trình diễn.

Cuộc thi đã thu hút sự quan tâm của hơn 700 người dân đến từ 5 xã tham gia hoạt động. Tại hội thi, 10 tiết mục truyền thông với chủ đề thích ứng dựa vào hệ sinh thái, nâng cao vai trò của phụ nữ trong việc tăng khả năng chống chịu của cộng đồng đã được trình diễn; 7 mô hình sinh kế thích ứng dựa vào hệ sinh thái của cộng đồng cũng được trình bày. Các tiết mục truyền thông và mô hình sinh kế đều được xây dựng và trình diễn bởi chính những thành viên tại cộng đồng.

Hoạt động với sự tham gia của đông đảo các chị em phụ nữ tại 05 xã.

Các tiết mục đều được chuẩn bị chu đáo, chỉnh chu, huy động sự tham gia của nhiều thành viên trong cộng đồng. Bên cạnh thể hiện những hạn chế, khó khăn trong việc phòng chống thiên tai tại cộng đồng các tiết mục cũng đã góp phần rất nhiều trong việc nâng cao nhận thức của cộng đồng về PCTT, bảo vệ môi trường, thích ứng BĐKH. Nội dung của các tiết mục truyền thông diễn tả những hành động thực tế như xả rác bừa bãi, chặt phá rừng, khai thác cát, chủ quan trong phòng chống thiên tai, khai thác tận diệt tài nguyên…những hành động này dẫn đến những hệ lụy xấu về môi trường, sinh thái, ảnh hưởng đến sức khỏe, đời sống, sinh kế và tính mạng của người dân, cộng đồng.

Hoạt động bổ ích, ý nghĩa và rất nhiều niềm vui là cảm nhận của các chị khi tham gia.

Việc tổ chức các hoạt động truyền thông tại cộng đồng được đánh giá cao nhờ mang lại những hiệu quả tích cực trong việc tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân. Thông qua những tiết mục do chính người dân trong cộng đồng thể hiện, các tiểu phẩm được cho là sát với thực tế, gần gũi và có tính tuyên truyền mạnh mẽ.

Sau khi kết thúc hoạt động truyền thông tại các xã – vòng 1, 5 tiểu phẩm, 5 mô hình sinh kế tốt sẽ được lựa chọn để trình diễn tại thành phố Huế – vòng 2.  Sau khi vòng 2 kết thúc, 02 sáng kiến truyền thông và 02 sáng kiến sinh kế tốt nhất sẽ được dự án hỗ trợ ghi hình và triển khai thực tế tại địa phương.

Hoạt động nằm trong khuôn khổ dự án “Nâng cao vai trò của phụ nữ trong việc tăng cường khả năng chống chịu của cộng đồng và hệ sinh thái ven biển miền Trung Việt Nam” theo quyết định số 1884/QĐ-UBND ngày 30/07/2021 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế. Trong đó, các hợp phần chính của dự án bao gồm: Tạo ra vườn ươm cộng đồng tự quản trong khu vực cây ngập mặn sẵn có do cộng đồng quản lý tại xã Hải Dương; Tổ chức các buổi truyền thông về Giảm thiểu rủi ro thiên tai dựa vào hệ sinh thái của các thành viên của Hội phụ nữ cấp cộng đồng.

Nghiên cứu về quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên nước tại lưu vực sông A Sáp

Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Xã hội (CSRD) đã có hoạt động nghiên cứu xác định nhu cầu của phụ nữ địa phương với mô hình sinh kế bền vững dựa vào quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên nước tại lưu vực sông A Sáp, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Nhóm cộng đồng tại xã Hồng Thượng, huyện A Lưới.

Hoạt động nghiên cứu được tiến hành tại 05 xã là Hồng Thái, Hồng Thượng, Quảng Nhâm, Sơn Thủy và Hồng Kim của huyện A Lưới.

A Lưới là một huyện miền núi nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Thừa Thiên – Huế, cách thành phố Huế hơn 70 km, với diện tích hơn 122 nghìn ha – lớn nhất tỉnh. Tuy nhiên, đây cũng là một trong những huyện nghèo nhất tỉnh với 4,337 hộ nghèo và 412 hộ cận nghèo, chủ yếu là đồng bào dân tộc. Huyện cũng có địa hình đồi núi với mạng lưới sông ngòi dày đặc, độ dốc lớn nên thường bị sạt lở vào mùa mưa. Đây là thượng nguồn của nhiều con sông lớn ở Huế, trong đó có 2 sông chảy sang Lào là sông A Sáp và sông A Lin. Theo đánh giá ban đầu cộng đồng ven sông A Sáp thuộc huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế, đang gặp nhiều khó khăn liên quan đến quản lý và sử dụng tài nguyên nước để đảm bảo đời sống.

Nhóm nghiên cứu làm việc cùng cộng đồng xã Hồng Thái, huyện A Lưới.

Sau khi hoạt động nghiên cứu kết thúc, CSRD sẽ tiến hành các hoạt động tham vấn ở các cấp cao hơn là xã, huyện và tỉnh. Từ những kết quả có được sẽ thực hiện hỗ trợ, nâng cao năng lực và xây dựng mô hình sinh kế phù hợp nhất tại các nhóm cộng đồng dựa trên điều kiện của từng cộng đồng cụ thể. Vai trò của phụ nữ trong các hoạt động của dự án này là hết sức quan trọng và cần thiết, do đó CSRD đã chú trọng rất nhiều đến sự tham gia của phụ nữ trong tất cả các hoạt động dự án mà CSRD triển khai.

Những nụ cười và kiến thức mới

CSRD cảm nhận được những niềm vui của mọi người thông qua hoạt động tập huấn về kiến thức liên quan đến giảm nhẹ rủi ro thiên tai và thích ứng với Biến đổi khí hậu mà mọi người được tham gia.

CSRD luôn mong muốn được tổ chức thật nhiều các hoạt động ở cộng đồng, mang đến những kiến thức mới cho cộng đồng, những kỹ năng sinh hoạt, những giờ chơi mà học vui vẻ bên cạnh các hoạt động mưu sinh hằng ngày.

Cộng đồng xã Quảng Lợi tham gia vào hoạt động tập huấn tại địa phương.
Các thành viên tham gia cùng thực hiện các bài thảo luận nhóm liên quan đến xây dựng các tiết mục truyền thông về rủi ro thiên tai và thích ứng Biến đổi khí hậu.

Khóa tập huấn về thiên tai và Biến đổi khí hậu được CSRD phối hợp thực hiện cùng Hội liên hiệp Phụ nữ tỉnh Thừa Thiên Huế cho 10 nhóm cộng động ở 05 xã là xã Quảng Lợi, Quảng Thái, Hải Dương, Phú Xuân và Phú An. Bên cạnh kiến thức được truyền tải, các nhóm cộng đồng sẽ cùng nhau tham gia hội thi về chủ đề liên quan. Những tiết mục vui nhộn, ý nghĩa và mang tính chất tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cộng đồng về thiên tai và Biến đổi khí hậu sẽ sớm được hình thành và gửi đến mọi người trong thời gian tới.

Bà Đặng Đỗ Liên Chi – Hội Phụ nữ tỉnh Thừa Thiên Huế là giảng viên chính của các khóa tập huấn tại địa phương.

Hoạt động nằm trong khuôn khổ dự án “Nâng cao vai trò của phụ nữ trong việc tăng cường khả năng chống chịu của cộng đồng và hệ sinh thái ven biển miền Trung Việt Nam” theo quyết định số 1884/QĐ-UBND ngày 30/07/2021 được Ủy ban Nhân dân tỉnh phê duyệt thực hiện. Một số hợp phần chủ yếu của dự án bao gồm: Xây dựng vườn ươm cây ngập mặn; Triển khai trồng rừng ngập mặn; Nâng cao khả năng chống chịu và thích ứng trước thiên tai cho cộng đồng.

CSRD nhận Giải thưởng RISK 2021 với dự án “Strong roots, Strong Women”- Gốc rễ bền chặt, phụ nữ quật cường

CSRD nhận Giải thưởng RISK 2021 với dự án “Strong roots, Strong Women”

CSRD tự hào khi đạt được Giải thưởng RISK* năm 2021 của Quỹ Munich Re với dự án mang tên “Gốc rễ bền chặt, Phụ nữ quật cường” với mục tiêu chính là trao quyền cho phụ nữ về tăng cường khả năng chống chịu của cộng đồng và hệ sinh thái ven biển dựa vào các bên liên quan. Hợp tác với công ty UP Transfer GmbH tại Đại học Postdam, Đức, chúng tôi kỳ vọng sẽ thành lập vườn ươm trong rừng ngập mặn do cộng đồng quản lý tại một trong những đầm phá lớn nhất Đông Nam Á và sáng kiến Quỹ cộng đồng đổi mới sáng tạo để hỗ trợ phụ nữ. Ngoài ra, rừng ngập mặn đồng thời tạo ra nhiều lợi ích chung về xã hội, kinh tế và văn hóa, hỗ trợ sinh kế cho các nhóm nghèo và dễ bị tổn thương do phụ thuộc trực tiếp vào tài nguyên thiên nhiên.

Chúng tôi chân thành cảm ơn tất cả những người đã luôn ủng hộ và hỗ trợ để chúng tôi đạt được thành công này.

*Giải thưởng RISK – do Quỹ Munich Re phối hợp với Văn phòng Giảm nhẹ rủi ro thiên tai của Liên hợp quốc (UNDRR) thành lập nhằm giúp cải thiện việc giảm thiểu rủi ro và quản lý thiên tai.

Để biết thêm thông tin về toàn bộ dự án, vui lòng xem thêm ở đây hoặc ở đây

Chia sẻ kết quả nghiên cứu về dự án Chuỗi giá trị chất thải tái chế tại thành phố Huế

Sáng ngày 15 tháng 10 năm 2019, các bạn sinh viên của trường Đại học RMIT đã có buổi chia sẻ kết quả nghiên cứu về dự án “Khảo sát nghiên cứu chuỗi giá trị chất thải tái chế tại thành phố Huế (Việt Nam) để giảm thiểu ô nhiễm nhựa” với các Sở, ban, ngành và các bên liên quan ở Thừa Thiên Tỉnh Huế.
Mục đích tổng thể của dự án nghiên cứu này là lựa chọn và phân tích chuỗi giá trị của các khu vực không chính thức trong quản lý chất thải có thể tái chế ở thành phố Huế. Theo đó, các chuỗi giá trị của các khu vực sẽ cung cấp thông tin, kiến thức liên quan về việc tạo ra doanh thu tiềm năng và tổn thất trong cả hệ thống quản lý chất thải ở khu vực chính thức và không chính thức.

Cùng thảo luận về kết quả của hoạt động nghiên cứu.

Dự án nghiên cứu nhằm tìm hiểu nhiều thông tin hơn về chuỗi giá trị của chất thải có thể tái chế ở thành phố Huế để CSRD có thể lên kế hoạch can thiệp tốt hơn cho các hệ thống thu gom chất thải, phát huy vai trò của phụ nữ – đối tượng dễ bị tổn thương trong khu vực không chính thức và giảm lượng chất thải được đưa đến bãi chôn lấp.
Giá trị tiềm năng về kinh tế của rác thải có thể tái chế được đưa vào chuỗi dịch vụ và quy trình tái chế vật liệu. Khu vực không chính thức đóng một vai trò quan trọng trong việc đưa rác thải tái chế còn có giá trị ra khỏi dòng chất thải, chất thải nhựa có giá trị thấp nhưng có thể tái sử dụng và mang lại lợi ích kinh tế. Khu vực quản lý chất thải không chính thức bao gồm các cộng đồng dễ bị tổn thương, chủ yếu là phụ nữ có điều kiện kinh tế thấp, những người làm việc và đóng góp một phần tài chính quan trọng cho gia đình. Hoạt động của khu vực này phụ thuộc chủ yếu vào doanh thu được tạo ra từ các hoạt động độc lập và phát triển kinh doanh thông qua thị trường tự do. Việc phát huy vai trò của khu vực không chính thức sẽ làm gia tăng giá trị vật chất. Điều này có khả năng giảm thiểu khối lượng chất thải được kết thúc dưới rác thải không thể tái sử dụng, gây ô nhiễm cho môi trường.

Các đại biểu tham dự buổi chia sẻ kết quả nghiên cứu.

Các hộ gia đình đóng vai trò đáng kể trong hệ thống chất thải có thể tái chế với giá trị đóng góp là 26,6%. Vai trò của các hộ gia đình có thể được nâng cao hơn thông qua các chương trình giáo dục cộng đồng, khuyến nghị tập trung nâng cao nhận thức cho phụ nữ trong việc phân loại rác tại nguồn. Điều này đảm bảo rằng chất thải có thể tái chế của hộ gia đình được quản lý phù hợp và làm tăng giá trị trong chuỗi giá trị rác tái chế.

Tập huấn du lịch cộng đồng cho các nhóm phụ nữ

Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Xã hội 9CSRD) đã tiến hành các khóa tập huấn về chủ đề du lịch cộng đồng cho các nhóm phụ nữ xã Hải Dương, xã Quảng Lợi và xã Lộc Vĩnh – khu vực ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế.
Mục tiêu của các khóa tập huấn nhằm xây dựng năng lực cho nhóm phụ nữ ở 3 cộng đồng vùng ven biển, đầm phá trong hoạt động phát triển du lịch dựa trên hệ sinh thái và rừng ngập mặn.

Nhóm phụ nữ xã Quảng Lợi, huyện Quảng Điền.

Nội dung của khóa tập huấn chú trọng đến các vấn đề về thiên tai, biến đổi khí hậu trên địa bàn tỉnh TT Huế và các biện pháp ứng phó; vai trò của hệ sinh thái và rừng ngập mặn; ý nghĩa của việc thích ứng dựa trên hệ sinh thái; phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng: phương pháp và các nguyên tắc; phát huy vai trò của phụ nữ trong phục hồi hệ sinh thái và sinh kế.

Các thành viên cùng nhau thảo luận kế hoạch thực hiện hoạt động du lịch tại cộng đồng.
Nhóm phụ nữ xã Hải Dương, thị xã Hương Trà.

Các thành viên của mỗi cộng đồng sẽ phát triển các ý tưởng thực hiện chương trình du lịch cộng đồng – du lịch sinh thái của địa phương mình thông qua phần thảo luận nhóm. Các nhóm dựa trên những nét đặc trưng và ưu điểm của địa phương mình để xây dựng kế hoạch phát triển du lịch cộng đồng phù hợp, đồng thời xác định các kỹ năng cần được trang bị để có kế hoạch bồi dưỡng, nâng cao nhằm thực hiện tốt các hoạt động phục vụ khách du lịch trong quá trình triển khai. Ngoài ra các các học viên còn được cung cấp các kiến thức liên quan đến truyền thông, quảng bá hình ảnh, sản phẩm du lịch qua các mạng xã hội.

Trình bày ý tưởng sau thảo luận.

Du lịch cộng đồng đang là hướng đi mới và là hướng phát triển bền vững cho các cộng đồng khu vực đầm phá Tam Giang, việc nâng cao kiến thức, kỹ năng cho các cộng đồng nơi đây đặc biệt là phụ nữ là một việc làm cần thiết để hoạt động đạt được những giá trị và kết quả cao hơn.
Hoạt động nằm trong khuôn khổ Dự án “Tăng cường khả năng chống chịu với lũ lụt ở khu vực đô thị và ven biển tình Thừa Thiên Huế” do Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Xã hội thực hiện.

Bàn giao 10 máy đo nồng độ pH cho cộng đồng.

Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Xã hội (CSRD) phối hợp cùng Chi cục Thủy sản tỉnh Đak Lak đã tiến hành bàn giao và hướng dẫn sử dụng máy đo nồng độ pH trong nước cho các nhóm nuôi trồng và phát triển thủy sản (PTTS) trong khuôn khổ dự án “Quản trị tài nguyên Nước”.

Ông Phan Văn Tiệp – Chi cục Thủy sán Đak Lak đang hướng dẫn thành viên nhóm thủy sản sử dụng máy đo pH.

Theo đó 10 máy đo pH đã được chuyển đến 05 nhóm cộng đồng là Chi hội nghề cá EaSup, nhóm PTTS EaWer, nhóm PTTS Tân Phú, nhóm PTTS Yang Tao, nhóm PTTS EaTung, mỗi nhóm cộng đồng sẽ nhận 02 máy.

Đo thử nghiệm máy pH tại lồng nuôi cá.

Thiết bị đo pH trong ao nuôi sẽ giúp các nhóm cộng đồng quản lý chất lượng nguồn nước, đảm bảo sự phát triển tốt của thủy sản trong ao nuôi, hạn chế các rủi ro liên quan đến nguồn nước trong quá trình nuôi trồng và phát triển nguồn lợi thủy sản.

Lồng nuôi cá trong hồ Ea Súp Hạ của nhóm PTTS Ea Súp, thị trấn Ea Súp, huyện Ea Súp.

Các mô hình sinh kế cộng đồng gắn liền với bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản do CSRD hỗ trợ bước đầu đã mang lại hiệu quả nhất định về mặt kinh tế cho các hộ nuôi tham gia, giá thành và đầu ra đều rất ổn định. Bên cạnh các giá trị về mặt kinh tế, mục tiêu và lợi ích hoạt động chính của nhóm khi tham gia dự án là bảo đảm phát triển các hoạt động sinh kế, phát triển nguồn lợi thủy sản bền vững, khai thác và quản lý hiệu quả nguồn tài nguyên nước ở khu vực sông Srêpốk. Trong thời gian tới, các nhóm đang có dự định phát triển và mở rộng quy mô của lồng nuôi; thành lập và kết nối các hợp tác xã hoạt động về thủy sản; xây dựng mô hình du lịch tham quan cộng đồng với các điểm nhấn là hồ nuôi cá lồng, vườn tiêu, vườn cam quýt với phương thức canh tác hữu cơ…

Thúc đẩy đồng quản lý nguồn lợi thủy sản trên lưu vực sông Sêrêpôk: Bài học từ một số mô hình thí điểm

Sêrêpôk là một phụ lưu quan trọng của sông Mê Công. Sông bắt nguồn từ Vườn quốc gia Chư Yang Sin của tỉnh Đắk Lắk và chảy qua hai tỉnh Ratanakiri và Stung Treng của Campuchia trước khi nhập vào Mê Công, tổng chiều dài của sông là 371 km. Tại Việt Nam, Sêrêpôk được hợp thành từ hai dòng sông là Krông Ana (sông Mẹ) và Krông Knô (sông Bố). Ngoài hệ thống sông này, ở Tây Nguyên, còn có một lưu vực quan trọng khác, cũng là phụ lưu của Mê Công và cùng chảy sang Campuchia trước khi hòa vào dòng sông Mẹ, đó là lưu vực sông Sê San.
Mặc dù có nhiều lợi thế và giá trị đa dạng sinh học, song cảnh quan các lưu vực sông Sêrêpôk và Sê San thuộc khu vực Tây Nguyên đang bị thay đổi mạnh do quá trình đầu tư, phát triển các thủy điện, khai mỏ, trồng cây công nghiệp và các hoạt động sử dụng đất mang tính thương mại khác. Nơi đây tuy có một mạng lưới sông, suối dày đặc nhưng lại không có những cộng đồng sống hoàn toàn độc lập bằng nghề cá. Phần lớn các hoạt động đánh bắt vẫn nhỏ lẻ, không thường xuyên và chỉ nhằm cung cấp nguồn thực phẩm trong phạm vi địa phương. Đáng chú ý là với hệ thống thủy điện dày đặc trên lưu vực như hiện nay thì sự đa dạng các loài cá đã và sẽ bị thay đổi hoặc biến mất. Do đó, rất cần một cơ chế, một mạng lưới quản trị hiệu quả nguồn tài nguyên thủy sản dồi dào này nhằm vừa duy trì và phát triển sinh kế bền vững cho người dân, vừa giúp bảo tồn, bảo vệ các giá trị tự nhiên, đa dạng sinh học của các lưu vực sông cũng như cảnh quan khu vực.
Trong bối cảnh ấy, Dự án “Quản trị Tài nguyên nước” đã được ra đời và lựa chọn khu vực Tây Nguyên làm địa bàn trọng điểm, cụ thể là hai tỉnh Gia Lai và Đắk Lắk, thời gian thực hiện từ 2016 – 2019. Dự án chia làm hai hợp phần, tương ứng với hai địa phương, trong đó, hợp phần về quản trị tài nguyên rừng được triển khai tại xã Đắk Roong, huyện K’Bang, tỉnh Gia Lai, do Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNture) phối hợp cùng Trung tâm Bảo tồn Đa dạng sinh học Nước Việt Xanh (GreenViet) thực hiện; hợp phần về quản trị tài nguyên nước do Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Xã hội (CSRD) triển khai tại 4 huyện thuộc tỉnh Đắk Lắk gồm huyện Krông Ana, Buôn Đôn, Ea Sup và Lắk. Mục tiêu của dự án nhằm tạo điều kiện cho các cộng đồng địa phương tham gia vào bảo tồn và phục hồi rừng ở khu hành lang giữa Vườn quốc gia Kon Ka Kinh và Khu bảo tồn thiên nhiên Kon Cha Răng tại tỉnh Gia Lai, đồng thời thúc đẩy sự tham gia có ý nghĩa thông qua một mạng lưới quản trị của các cộng đồng ở lưu vực sông Sêrêpôk trên các tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Kon Tum.
Đối với hợp phần thứ hai, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Xã hội (CSRD) đã thực hiện 05 hoạt động chính bao gồm: (i) Thu thập thông tin và xác các cộng đồng liên quan ở lưu vực sông Serepok để tham gia hoạt động dự án; (iii) Nâng cao năng lực cho các cộng đồng địa phương, chú trọng các nhóm phụ nữ và thanh niên trong quản trị lưu vực sông; (iii) Xây dựng mạng lưới học hỏi giữa các cộng đồng này và các bên liên quan khác để chia sẻ các bài học về quản trị tài nguyên thiên nhiên trong lưu vực sông; (iv) Hỗ trợ những biện pháp đánh bắt cá bền vững và các sáng kiến sinh kế bền vững kết hợp với bảo tồn các hệ sinh thái tự nhiên ở Hồ Lắk và các khu vực ven sông khác thông qua các quỹ cộng đồng nhỏ; (v) Tổ chức các cuộc đối thoại giữa các bên liên quan về vai trò của cộng đồng, phụ nữ, thanh niên và các hoạt động sinh kế bền vững trong bối cảnh quản trị lưu vực sông ở cấp xã và cấp huyện.
Hiệu quả từ các mô hình
Từ năm 2016 –  2019, CSRD đã hỗ trợ xây dựng, phục hồi 07 mô hình sinh kế cộng đồng tại các cộng đồng thôn Tân Phú và thôn Na Wer (huyện Buôn Đôn), thôn Ea Tung (huyện Krông Ana), xã Yang Tao (huyện Lắk) và Thị trấn Ea Sup (huyện Ea Sup).
Mô hình nuôi cá ao của các nhóm cộng đồng ở thôn Nawer, xã Eawer, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk
Nhóm Nawer được thành lập mới dựa trên chi hội nghề cá cũ (2009) với số lượng 13 thành viên bao gồm 12 nam, 01 nữ. Từ số tiền hỗ trợ ban đầu của dự án là 20 triệu đồng, nhóm đã được củng cố và thành lập, trong đó, nhóm ưu tiên cho thành viên là hộ nghèo hoặc có kinh tế khó khăn hơn hoặc những hộ đã có nhiều kinh nghiệm và thành công trong việc nuôi cá nước ngọt vay vốn trước để nuôi cá tại ao của gia đình. Sẽ có 2 hộ được vay trong năm đầu tiên, sau đó hàng năm sẽ luân chuyển vòng vốn cho các hộ khác dựa theo tiêu chí của nhóm đưa ra. Lãi suất được tính là 0,1% và dùng để chi trả cho các cuộc họp nhóm hoặc tăng cường thêm cá giống. Các loài cá được nuôi chủ yếu là cá trắm, trôi, mè và rô phi đơn tính.

Mô hình ở thôn Nawer, xã Eawer, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk (Ảnh: PanNature)

Ngoài ích lợi vay vốn và gắn kết tổ, nhóm, các thành viên khi tham gia vào nhóm cũng nâng cao ý thức bảo vệ nguồn lợi thủy sản hơn, hạn chế những hoạt động đánh bắt trái phép trên sông nhằm bảo tồn nguồn cá tự nhiên của lưu vực Sêrêpôk. Đáng chú ý là sau khi thành lập, các hộ thành viên xây dựng được lịch trình, kế hoạch nuôi rõ ràng, có thể tham khảo và học hỏi kinh nghiệm từ các thành viên khác để nuôi cá đạt năng suất, sản lượng tốt nhất. Đối với một số hộ vốn đã nuôi cá từ trước khi tham gia dự án nên họ có sẵn các điều kiện để phát triển mô hình nuôi cá, đa dạng loài và có kinh nghiệm để có thể chia sẻ cho các thành viên khác.
Bên cạnh một số kết quả đạt được, mô hình cũng gặp một số khó khăn, tồn tại như thời tiết ngày càng khô hạn, nhất là mùa khô cần phải bơm nhiều nước từ sông vào để đảm bảo môi trường sống cho cá; các hộ thành viên trước đây nuôi trồng nhỏ lẻ nên còn thiếu kinh nghiệm, năng suất thấp và vẫn chưa ý thức được nhiều về lợi ích của hoạt động nhóm; các hồ chưa mạnh dạn đầu tư và tham gia các hoạt động chung của nhóm.
Mô hình nuôi cá lồng trên sông của nhóm Thiên Phú ở thôn Tân Phú, xã Ea Nuôl, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk
Nhóm Thiên Phú gồm 15 thành viên, trong đó có 11 nam và 4 nữ. Nhóm đã tận dụng mặt nước sông Sêrêpôk để phát triển mô hình nuôi cá lồng. Từ nguồn kinh phí hỗ trợ của dự án, Nhóm đã góp đối ứng thêm 45 triệu đồng để cho 7 hộ vay làm vốn sản xuất và dùng để nuôi cá lồng chung của cả nhóm. Sau khi thành lập, nhóm đã gửi thêm đề xuất xin ngân sách từ phía huyện và được hỗ trợ thêm 60 triệu đồng. Để duy trì các hoạt động có hiệu quả, nhóm xây dựng quy chế, cơ chế tài chính rõ ràng và tiến hành họp định kỳ mỗi tháng/lần để cập nhật tình hình cũng như tìm các giải pháp khắc phục nếu gặp sự cố.

Mô hình nuôi cá trong lòng hồ thủy điện của nhóm cộng đồng thôn Tân Phú (Ảnh: CSRD)

Anh Mạc Văn Thanh, thành viên Nhóm thủy sản Thiên Phú cho biết Tổ hoạt động với 15 thành viên đến từ các hộ gia đình khác nhau trong thôn, mưu sinh bằng nghề đánh bắt cá trên hồ thủy điện Sêrêpôk 3. Tham gia nhóm, các hộ được hỗ trợ nuôi cá tập trung thành một lồng lớn có diện tích 360 m2, thả nuôi các loại cá lóc, cá rô phi, cá trắm… Ngoài ra, các thành viên được tham gia nhiều khóa tập huấn về kỹ thuật nuôi trồng thủy sản, cách xử lý dịch bệnh, vệ sinh lồng nên hạn chế được các khó khăn và tổn thất, đồng thời chuyển đổi nuôi các loài cá phù hợp và đem lại hiệu quả kinh tế cao. Trong quá trình nuôi, các thành viên cùng nhau phân công chăm sóc và canh giữ lồng nuôi, chấp hành quy định về sử dụng thức ăn sạch, không dùng chất cấm, bước đầu mô hình mang lại hiệu quả nhất định về mặt kinh tế cho các hộ tham gia, giá thành và đầu ra đều ổn định. Không chỉ đạt được hiệu quả về kinh tế, Nhóm còn giúp các thành viên nâng cao nhận thức về phát triển nguồn lợi thủy sản bền vững, đồng thời khai thác và quản lý hiệu quả nguồn tài nguyên nước ở khu vực sông Sêrêpôk. Các thành viên đang tích cực tìm kiếm các nguồn đầu tư từ phía chính quyền và các doanh nghiệp để có thể khai thác tốt hơn tiềm năng của địa phương. Mặt khác, Nhóm cũng khuyến khích sự tham gia của các hộ khác nhằm giảm tải được việc đánh bắt trái phép và hủy diệt trên sông Sêrêpôk.
Mô hình du lịch sinh thái Tân Phú, xã Ea Nuôl, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk

Mô hình du lịch sinh thái Tân Phú, xã Ea Nuôl, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk (Ảnh: PanNature)

Nhóm Tân Phú là sự mở rộng của Nhóm Thiên phú (nuôi cá trong lòng hồ thủy điện Serepok 3) với các hộ sinh sống ven hồ Sêrêpok. Hiện các hộ đang phát triển mô hình trồng cam quýt, tiêu, cà phê sạch ven hồ để thúc đẩy du lịch sinh thái tại địa phương, cụ thể Nhóm sẽ xây dựng mô hình du lịch tham quan cộng đồng với điểm nhấn là hồ nuôi cá lồng, vườn tiêu, vườn cam quýt với phương thức canh tác hữu cơ. Hiện Tân Phú đang tiến hành các thủ tục cần thiết để thành lập hợp tác xã vừa hoạt động về thủy sản, vừa phát triển du lịch sinh thái nhằm nâng cao sinh kế cho các hộ dân, đồng thời tích cực bảo vệ môi trường nước trong lòng hồ.
Mô hình nuôi cá của nhóm Ea Tung, xã Ea Na, huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk
Nhóm được thành lập với 16 thành viên, gồm 12 nữ và 4 nam. Đây là nhóm có tỷ lệ phụ nữ nhiều nhất trong số các nhóm. Đặc biệt, ngoài kinh phí hỗ trợ của dự án, nhóm góp đối ứng thêm 36 triệu đồng để phát triển mô hình nuôi cá nước ngọt tại 2 hồ của hai hộ trong nhóm. Việc này thúc đẩy tích cực tính tương tác giữa các thành viên, đồng thời thể hiện tinh thần, ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân khi tham gia vào Nhóm. Nhóm tổ chức họp định kỳ mỗi tháng/lần để trao đổi các vấn đề trong việc nuôi cá như: xử lý ao hồ, nguồn nước sông vào hồ…, đồng thời xây dựng được quy chế và cơ chế tài chính rất rõ ràng, đảm bảo được quyền lợi cho mỗi thành viên. Mô hình được nhiều hộ và chị em phụ nữ ở các địa bàn lân cận đến tham quan, học hỏi.

Vệ sinh ao nuôi cho đợt thả cá tiếp theo của nhóm Ea Tung (Ảnh: CSRD)

Sau hơn 3 năm thực hiện, các thành viên đều được tập huấn và áp dụng kỹ thuật vào chăm sóc từ khâu xử lý ao nuôi đến chăm sóc, chế biến thức ăn, cho cá ăn sao cho đúng cách… nên hạn chế tối đa dịch bệnh, đồng thời đảm bảo chất lượng cá nuôi và nâng cao thu nhập cho các thành viên. Mặt khác, việc thành lập nhóm đã đem lại nhiều lợi ích như tạo việc làm cho chị em phụ nữ, không phải đi làm ăn xa; có cơ hội chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau; tinh thần làm việc nhóm tăng lên; ý thức bảo vệ nguồn nước và bảo vệ môi trường được nâng cao, các hộ không vứt rác bừa bãi như trước đây. Đặc biệt, mô hình giúp chị em tự tin hơn, đoàn kết hơn, hào hứng thực hiện các mô hình mới như nuôi bò, ủ phân…
Theo ông Nguyễn Hữu Thái, chủ hộ nuôi cá của nhóm, khi nuôi tập trung theo nhóm hộ là mọi hoạt động liên quan đến việc nuôi cá đều phải được các thành viên thống nhất. Hiện nay, cùng với chăm sóc ao cá chung rộng 3.000 m2, các hộ còn truyền đạt kinh nghiệm mở rộng diện tích nuôi cá tại gia đình kết hợp với nuôi heo lai rừng và sản xuất nông nghiệp, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Những kết quả bước đầu của mô hình nuôi cá nước ngọt tập trung theo nhóm hộ thôn Ea Tung, xã Ea Na đang là một trong những hướng phát triển kinh tế mới, vừa đem lại hiệu quả thiết thực, vừa giúp các hộ dân gắn bó giúp nhau phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững tại địa phương.
Mô hình khoanh vùng mặt nước ở hồ Lắk, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk
Huyện Lắk có nguồn nước mặt khá dồi dào với các hồ chứa như hồ Lắk, hồ Buôn Triết, hồ Buôn Trí A, Buôn Tua Srah… cùng mạng lưới sông ngòi dày đặc thuộc lưu vực sông Krông Ana và Krông Nô – hai con sông lớn trong hệ thống sông Sêrêpốk. Đặc biệt, ở đây có hồ Lắk với diện tích khoảng 62 km2, là hồ nước ngọt tự nhiên lớn nhất tỉnh Đắk Lắk và lớn thứ hai của Việt Nam. Ngoài ra, địa phương còn có các suối nội địa bắt nguồn từ dãy Chư Yang Sin như suối Đắk Phơi, Đắk Liêng, Đắk Pắk, Đắk Mây… Hệ thống hồ, sông, suối dày đặc được bao bọc bởi địa hình đồi núi đã tạo nên lưu vực rộng lớn, đặc biệt là những cánh đồng trũng có nước quanh năm, rất thuận lợi cho phát triển nguồn lợi thủy sản trên địa bàn. Những năm gần đây, do sự gia tăng cường độ khai thác và sử dụng ngư cụ mang tính hủy diệt tràn lan nên sản lượng khai thác suy giảm nghiêm trọng. Mặt khác, hồ Lắk có nhiều quy hoạch chồng chéo nên ảnh hưởng đến nghề khai thác thủy sản cũng như quản lý, bảo vệ đa dạng sinh học của hồ. Thực trạng này cho thấy việc phân vùng sử dụng mặt nước hồ Lắk là nhiệm vụ quan trọng, giúp thúc đẩy đồng quản lý nguồn lợi thủy sản trên lòng hồ.
Trước tiên, CSRD hỗ trợ phục hồi Chi hội nghề cá Liên Sơn thuộc thị trấn Liên Sơn, huyện Lắk, đồng thời thành lập Nhóm thủy sản buôn Phôốc, xã Yang Tao, huyện Lắk. Trong đó, đối với chi hội Liên Sơn, Trung tâm hỗ trợ địa phương tiến hành quy hoạch, phân vùng mặt nước trên hồ Lắk tiến tới cấp quyền cho các hội/nhóm trên vùng đã được quy hoạch, phân vùng. Đối với nhóm thủy sản ở Yang Tao, CSRD hỗ trợ tiền mua cá giống cho các hộ nuôi thả tại nhà, đồng thời tập huấn kỹ thuật nuôi. Nhóm gồm 6 hộ người đồng bào M’Nông, sinh sống chủ yếu từ nghề đánh bắt, khai thác nhỏ lẻ trên hồ Lắk. Việc vận động họ tham gia mô hình nhằm hướng đến nguồn sinh kế bền vững, ổn định hơn. 

Tập huấn kỹ thuật nuôi cá cho các hộ dân ở Buôn Phoốc, xã Yang Tao, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk (Ảnh: CSRD)

Mô hình chi hội nghề cá Ea Sup, huyện Ea Sup, tỉnh Đắk Lắk

Hồ Ea Sup (Ảnh: PanNature)

Chi hội Ea Sup được thành lập cách đây gần 10 năm, hiện vẫn hoạt động dựa trên nỗ lực của một số thành viên nòng cốt. Tuy nhiên, hiện CSRD đang hỗ trợ Nhóm thành lập nhóm nuôi cá lồng trên lòng hồ Ea Sup, đồng thời hỗ trợ rà soát các văn bản pháp lý nhằm thúc đẩy công nhận và trao quyền đồng quản lý nguồn lợi thủy sản cho nhóm cộng đồng.

Thả 15.000 con cá lăng đuôi đỏ giống của nhóm Ea Súp, huyện Ea Sup, tỉnh Đắk Lắk (Ảnh: CSRD)

Bài học và khuyến nghị

Dự án “Quản trị nguồn tài nguyên nước” đã thực hiện theo phương thức tiếp cận mô hình đồng quản lý, huy động sự tham gia của cả người dân và chính quyền địa phương nhằm nâng cao năng lực sản xuất gắn với thị trường và bảo vệ được nguồn tài nguyên thủy sản phong phú của địa phương. Một số mô hình sáng tạo và hiệu quả, mang lại thu nhập ổn định đồng thời bảo vệ nguồn lợi thủy sản cũng như đa dạng sinh học ở lưu vực sông Sêrêpôk đối với các nhóm cộng đồng, đăc biệt là đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Lắk. Việc triển khai đồng bộ nhiều hoạt động khác nhau như: hỗ trợ thành lập, phục hồi nhóm/chi hội nghề cá; hỗ trợ tập huấn kỹ thuật và tuyên truyền nâng cao nhận thức cho các thành viên và đối tác; hỗ trợ cá giống, vật tư, biển bảng; tổ chức đối thoại vận động chính sách… đã mang lại kết quả tích cực đến các thành viên, đặc biệt là các thành viên nữ; các nhóm cộng đồng đã có ý thức phát triển sinh kế và bảo vệ môi trường tốt hơn, hạn chế các phương thức và phương tiện đánh bắt mang tính hủy diệt, chuẩn bị tiền đề tốt cho quá trình thực hiện đồng quản lý nguồn lợi thủy sản về sau.
Theo đánh giá của đại diện Chi cục thủy sản tỉnh Đắk Lắk, các mô hình do CSRD hỗ trợ đều khá hiệu quả vì đã giúp được các nhóm cộng đồng ở các huyện nâng cao năng lực làm kinh tế, tiếp cận thị trường và đặc biệt là giảm nghèo, hướng tới đánh bắt bền vững, thân thiện với môi trường, bảo tồn nguồn lợi thủy sản, phù hợp với chiến lược phát triển của việc đẩy mạnh phát triển ngành của thủy sản của tỉnh, tạo việc làm và ổn định kinh tế cho nhiều hộ gia đình.
Đáng chú ý là các thành viên của các nhóm mô hình nuôi ttrồng thủy sản ở hai huyện Buôn Đôn và Krông Ana cho hay ngay cả khi dự án kết thúc, họ vẫn duy trì sinh hoạt nhóm, vẫn tiếp tục nuôi cá và nhân rộng mô hình, có thể là mở rộng quy mô ở một số thôn, xã lân cận. Các thành viên cũng sẽ tiếp tục đóng góp vào quỹ nhóm để quay vòng vốn cho các hộ thành viên vay hoặc mở rộng quy mô nuôi cá của nhóm.
Hiện các cộng đồng sống dọc lưu vực sông Sêrêpôk có nguồn thu nhập chủ yếu phụ thuộc vào đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, do đó, việc thúc đẩy mô hình đồng quản lý nguồn lợi thủy sản là rất cần thiết, vừa giúp cải thiện kinh tế cho người dân, vừa bảo tồn được các loài thủy sản và đa dạng sinh học của vùng. Tuy nhiên, để đạt hiệu quả đồng quản lý, cần sự vào cuộc của các các cấp chính quyền, tổ chức địa phương, doanh nghiệp, chuyên gia và người dân. Các địa phương có thể cân nhắc áp dụng các mô hình của dự án, đồng thời duy trì, phát triển nhiều hơn nữa các nhóm/chi hội nghề cá tại địa phương với các nội dung thích hợp như hỗ trợ tập huấn kỹ thuật nuôi trồng thủy sản, phổ biến các chính sách và luật thủy sản của nhà nước, tập huấn tiếp cận thị trường, tìm đầu ra lâu dài cho sản phẩm, kết nối doanh nghiệp…, tạo động lực cho người dân phát triển sinh kế và ổn định cuộc sống.

Nguồn: PanNature

Khảo sát nghiên cứu chuỗi giá trị chất thải tái chế tại thành phố Huế (Việt Nam) để giảm thiểu ô nhiễm nhựa

Năm 2018, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Xã hội (CSRD), một tổ chức phi lợi nhuận tại Việt Nam, đã thực hiện dự án “Chương trình tái chế rác thải nhằm giảm thiểu ô nhiễm chất thải nhựa ở tỉnh Thừa Thiên Huế” với mục tiêu chung là giảm thiểu và tái chế rác thải nhựa tại khu vực thành phố Huế.
Dự án nhằm mục đích thúc đẩy và thực hành phương pháp 3Rs (giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế) bằng cách giới thiệu hệ thống phân loại rác thải tại các trường học được chọn tại địa phương, thông qua sự tham gia của cộng đồng và thông qua các phương tiện truyền thông nhằm hướng đến mục tiêu giảm thiểu 5% lượng rác thải nhựa.

Sinh viên thảo luận với CSRD về kế hoạch dự án chi tiết.

Sau gần một năm, dự án đã thực hiện một loạt các hoạt động nhằm nâng cao nhận thức và thiết lập hệ thống phân loại rác thải tại 06 trường học và bước đầu đã dạt được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, CSRD muốn đi sâu hơn để hiểu về cách hoạt động của hệ thống thu gom rác thải không chính thức và chuỗi giá trị của loại chất thải này. CSRD muốn thu hút sinh viên RMIT trong một nghiên cứu như vậy.

Sinh viên sẽ thực hiện một dự án nghiên cứu về chuỗi giá trị chất thải tái chế tại thành phố Huế, Việt Nam.

Dự án nhằm mục đích tìm hiểu về chuỗi giá trị chất thải có thể tái chế ở thành phố Huế, nhờ đó CSRD có thể lên kế hoạch thực hiện tốt hơn cho hệ thống thu gom chất thải và giảm thiểu khối lượng chất thải vào bãi rác.

Ông Quảng (Tổ chức IDE) đã học Thạc sĩ tại Mỹ và có kinh nghiệm chuyên sâu về Chuỗi giá trị.

Sinh viên sẽ thực hiện một dự án nghiên cứu về chuỗi giá trị chất thải tái chế tại thành phố Huế – Việt Nam, tiến hành thảo luận với các giám sát viên của trường học và CSRD về kế hoạch dự án chi tiết.