Chú trọng nâng cao vai trò Giới trong phát triển thủy điện

Ngày 9/9/2015 tại thành phố Đà Nẵng với sự tài trợ của tổ chức Oxfam, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Xã hội (CSRD) kết hợp với Mạng lưới Sông ngòi Việt Nam (VRN) cùng Công ty thủy điện miền Trung (EVN) đã khởi động dự án “Thí điểm đánh giác tác động về Giới tại thủy điện A Lưới và thủy điện Serepok 3 thuộc khu vực nhánh sông 3S của miền Trung Tây nguyên Việt Nam”.

Tham dự cuộc họp là Đại diện tổ chức Oxfam, thành viên CSRD, đại diện VRN, lãnh đạo công ty Thủy điện miền Trung, Phó chủ tịch hội phụ nữ tỉnh Thừa Thiên Huế, sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh Thừa Thiên Huế cùng các chuyên gia nghiên cứu về Giới và đánh giá tác động môi trường (ĐTM) và các cộng đồng chịu tác động của thủy điện ở A Lưới, Dak Lak, Quảng Nam.

IMG_0043
Các thành viên tham dự đã đóng góp rất nhiều ý kiến thiết thực cho hoạt động của dự án.

Mục đích của cuộc họp nhằm giới thiệu về ý tưởng và kế hoạch của dự án qua đó thu thập ý kiến đóng góp từ các bên liên quan về kế hoạch hoạt động đi đến thông nhất trong triển khai. Cuộc họp tập trung nâng cao vai trò về Giới thông qua các đánh giá tác động môi trường, xã hội…
Tiếp đó từ ngày 10 – 11/9/2015 cũng tiếp tục diễn ra lớp Tập huấn “Đánh giá tác động về Giới đối với Thủy điện”. Với sự tham gia của gần 30 học viên gồm đại diện của Oxfam, các chuyên giá đánh giá tác động, các cán bộ của công ty thủy điện miền Trung và chủ yếu là người dân bị ảnh hưởng bởi Thủy điện ở khu vực miền Trung – Tây Nguyên.

IMG_0133
Giao lưu giữa học viên và giáo viên lớp khóa học.

Nội dung của tập huấn này tập trung khái niệm về Giới, khung pháp lý về bình đẳng giới, cung cấp cho người dân các công cụ đánh giá tác động về Giới như bộ công cụ Harvard giúp người dân có thể tự đánh giá được những rủi ro, những vấn đề có thể xảy ra về Giới khi xây dựng các công trình Thủy điện.
Các học viên tham dự khóa học cũng nhận thấy sự mới mẻ trong vấn đề về Giới và thủy điện qua đó họ cũng tiếp nhận thêm rất nhiều kiến thức và tỏ ra hứng thú với những gì được học.

0 image004
Phụ nữ và nam giới tham gia đóng góp ý kiến trong lập kế hoạch thực địa dự án.

Sau khi kết thúc khóa học, người dân cùng các chuyên gia về Đánh giá tác động đã tiến hành lập kế hoạch thực địa nhằm Đánh giá tác động Giới của các công trình thủy điện ở A Lưới dự kiến triển khai vào tháng 10/2015.

Quốc Huy

Nhìn lại Việt Nam từ thỏa thuận khí hậu COP21

Thỏa thuận khí hậu đạt được tại Hội nghị lần thứ 21 Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu (COP21) ở Paris đã tạo được một bước tiến đáng nể trong hành trình ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) của nhân loại. Nhìn lại Việt Nam, đây sẽ vừa là cơ hội vừa là thách thức lớn, với nhiều tác động quan trọng tới các chính sách trong nước…
Là diễn đàn nơi các quốc gia cố gắng đạt được những thỏa thuận về cắt giảm khí thải, hỗ trợ tài chính cho các nước nghèo thích ứng và đối phó với các thảm họa bởi BĐKH, và nhiều vấn đề phức tạp khác như mức độ khí thải tối đa, thước đo đánh giá thiệt hại… nhưng suốt 20 năm qua COP luôn đối diện với hết thất bại này tới thất vọng khác. Tháng 12 năm nay, sau 20 năm, COP21 đã có những bước chuyển chấn động, mà quan trọng nhất là 195 quốc gia thành viên COP21 đã nhất trí hạn chế mức tăng nhiệt độ Trái đất không quá 2 độ C so với thời kỳ tiền cách mạng công nghiệp, và sẽ cố gắng đưa con số này về mức 1,5 độ C. Mục tiêu này cao hơn gấp đôi so với những cam kết trong các đóng góp quốc gia tự nguyện hiện tại. Tất nhiên, lộ trình và thiết kế hành động phải được thống nhất giữa các nước và giữa các ngành ở mỗi nước.

Nhiều tác động tới chính sách

Còn với Việt Nam, một trong năm nước bị tác động mạnh mẽ nhất do BĐKH, cũng là nước có nhiều vấn đề môi trường với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa mạnh mẽ, theo nhận định của nhiều chuyên gia, kết quả tại COP21 có nhiều tác động lớn tới các chính sách trong nước. Trao đổi với Người Đô Thị, bà Ngụy Thị Khanh, Giám đốc Trung tâm Phát triển xanh GreenID phân tích, quan sát từ các hội thảo bên lề ở vùng Blue Zone (tên gọi một số vùng có tuổi thọ nhiều người dân trên 100 – PV), bà nhận thấy xu thế không thể cưỡng lại của thế giới là sự lên ngôi công nghệ và sáng tạo đổi mới trong thị trường năng lượng. Điều này khiến nền kinh tế toàn cầu sẽ rời bỏ mô hình phát triển và tăng trưởng dựa vào nhiên liệu hóa thạch. Các mục tiêu cắt giảm khí thải và hạ thấp tác động của phát triển công nghiệp toàn cầu đối với Trái đất trong Thỏa thuận Paris tác động rất to lớn tới các quyết định đầu tư. Năng lượng hóa thạch sẽ tới lúc cạn kiệt, nên theo bà Khanh, chính sách phát triển năng lượng của Việt Nam trong thời gian tới cần có sự chuyển đổi mạnh mẽ trong định hướng phát triển cơ cấu nguồn.

Việt Nam là một trong năm nước chịu tác động mạnh nhất từ biến đổi khí hậu. Ảnh BD
Việt Nam là một trong năm nước chịu tác động mạnh nhất từ biến đổi khí hậu. Ảnh BD

Một tác động nữa có thể nhìn thấy trong lĩnh vực hợp tác phát triển khoa học công nghệ và tài chính khí hậu. “Nếu đất nước chúng ta có chính sách nhất quán, linh hoạt và nhạy bén để khai thác được các cơ hội và cơ chế thực thi từ Thỏa thuận Paris, nhằm phát huy lợi thế cạnh tranh về nguồn nhân lực, kinh nghiệm nông nghiệp và tài nguyên sẵn có thì có thể là một bước chuyển lớn tạo động lực cho nền kinh tế đang cần có luồng sinh khí mới”, bà Khanh nhận định.

Giao việc đúng người, tiền tới đúng chỗ

Nhìn nhận Việt Nam có khả năng vừa trở thành một nước “vừa được hưởng lợi và được bù đắp do tác động BĐKH từ Thỏa thuận Paris, nhưng cũng sẽ là một nước gặp nhiều thách thức trong việc thực hiện cam kết này”, bà Lâm Thị Thu Sửu – Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu xã hội và phát triển – CSRD, cho rằng: các bộ ngành Việt Nam cần có chính sách và cơ chế phù hợp, khả năng thực tế phải được thiết kế một cách bài bản và khoa học, rà soát lại toàn bộ các chỉ số tăng trưởng toàn quốc và tăng trưởng mỗi ngành và mỗi khu vực… Chỉ như vậy mới có thể thực hiện được cam kết do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đưa ra ở COP21, là “giảm 8% lượng phát thải khí nhà kính vào năm 2030, và có thể giảm đến 25% nếu nhận được hỗ trợ hiệu quả từ cộng đồng quốc tế”.

Thực tế, Việt Nam đã xây dựng được chiến lược và kế hoạch hành động về tăng trưởng xanh ở cấp quốc gia từ 2014. Trong năm 2015, một số địa phương đã có kế hoạch “thực hiện chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh”. Theo bà Sửu, các kế hoạch này nếu được thiết kế một cách bài bản và chuyên nghiệp thì hoàn toàn có thể góp phần cho Việt Nam thực hiện cam kết của mình đối với tuyên bố chung COP21. Tuy nhiên, quan sát các văn bản kế hoạch và quá trình xây dựng kế hoạch của các tỉnh lại cho thấy, các kế hoạch này không được xây dựng một cách hiệu quả và không khả thi. Nhiều địa phương vẫn làm kế hoạch này một cách đối phó.

Ngoài ra, nhiều chuyên gia cho rằng, các nhà soạn thảo kế hoạch hành động tăng trưởng xanh này đã không chú ý đến vai trò của các tổ chức xã hội dân sự (XHDS) và vai trò doanh nghiệp. Thực tế, chính XHDS là các tổ chức đã đồng hành cùng các nhóm cộng đồng trong việc hỗ trợ các cộng đồng thực hành sản xuất xanh, bảo vệ môi trường… Còn các doanh nghiệp nếu cam kết giảm phát thải, sản xuất xanh thì phải được tham gia đầu tiên. Vì vậy, rất cần một kế hoạch phù hợp với sự tham gia của nhiều bên liên quan.

Các cam kết liên quan đến hỗ trợ tài chính từ nước giàu đến nước nghèo chịu ảnh hưởng bởi BĐKH là một phần rất quan trọng trong Thỏa thuận Paris. Các đối tượng thụ hưởng số tiền này phải là các nhóm thiệt thòi và bị ảnh hưởng nhiều nhất từ BĐKH. Bà Sửu cho biết, nhiều năm qua, cũng đã có một số quỹ khí hậu ra đời, tuy nhiên thực tế, các nhóm cộng đồng địa phương ở các nước bị ảnh hưởng như Việt Nam chưa nhận được nguồn hỗ trợ này. Nhiều nghiên cứu đã chỉ rõ ở Việt Nam, nhóm người nghèo ở các vùng ven biển, người nghèo đô thị và phụ nữ là đối tượng dễ bị tổn thương nhất về mặt sinh kế, nhưng đến nay họ vẫn chưa nhận được hỗ trợ từ các quỹ khí hậu. Vì vậy, theo bà Sửu, Việt Nam cần xem xét cơ chế thế nào để đảm bảo tiền về đúng đối tượng. Trong đó các tổ chức XHDS cần được tham gia như một bên quan trọng để đảm bảo tính minh bạch, công bằng trong phân phối nguồn tiền và hiệu quả trong sử dụng nguồn tiền.

Lê Quỳnh – Nguồn: nguoidothi.vn

Thủy điện Buôn Kuop: Khó khăn gọi tên người dân

Sông Srêpok là một sông nhánh của sông Mekong. Theo nghiên cứu của các chuyên gia trong và ngoài nước, sông Srêpok được đánh giá là có tiềm năng thủy năng và thủy lợi đóng góp cho sự phát triển kinh tế của tỉnh Đak Lak và vùng cao nguyên Trung bộ. Công trình thủy điện Buôn Kuôp với công suất lắp máy 280 MW và công suất đảm bảo 68,7 MW được xây dựng trên sông Srêpok thuộc địa bàn các huyện Krông Nô, Krông Ana. Tổng dự toán đầu tư của công trình thủy điện Buôn Kuốp là 4,588.125 triệu đồng.

Nằm trong vùng lòng hồ là 2 xã Ea Na, huyện Krông Ana, tỉnh Đak Lak và xã Nam Đà, huyện Krông Nô, tỉnh Đal Nông.

Lại chuyện đền bù chưa thỏa đáng.

Qua tìm hiểu và trao đổi với chính quyền địa phương chúng địa phương chúng tôi được biết xã Ea Na là một địa bàn chịu tác động từ công trình thủy điện Buôn Kuop, trong đó có 2 thôn chịu ảnh hưởng trực tiếp đó là Buôn Drai và thôn Ea Tung. Năm 2008, để tiến hành giải phóng mặt bằng khu vực lòng hồ thủy điện Buôn Kuop, UBND huyện Krông Ana đã ra Quyết định số 880/QĐ-UBND ngày 02/6/2008 về việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình, cá nhân tái định canh, định cư tại Buôn Drai, xã Ea Na. Tổng số hộ gia đình, cá nhân được giao đất là 111 hộ, trong đó có 14 hộ vừa tái định canh vừa tái định cư, với tổng diện tích được giao là 566,483 m2. Theo thông tin cung cấp của ông Y Hai Kbuôr (trưởng Buôn Drai) thì trên thực tế có 196 hộ được cấp đất tái định canh với tổng diện tích 76 ha, trung bình mỗi hộ là 3877,5 m2 đất canh tác cà phê. Nhưng cho đến nay công tác đền bù vẫn chưa được thỏa đáng, người dân trong buôn cũng đã có những kiến nghị nhất định với chính quyền địa phương và Ban quản lý dự án. Cụ thể 31 hộ bị sót diện tích trong khu vực lòng hồ với tổng diện tích 18.9 ha chưa được giải quyết. Thêm vào đó việc 51 hộ bị trừ 17,000,000 đồng/hộ để nhận lấy 5,000 m2 tái định canh từ đất của Công ty cà phê Krông Ana. Đây là một hình thức “mua bán” đất chứ không phải cấp đất tái định canh định cư, bởi vì người dân vừa bị mất đất ở nơi sản xuất cũ với diện tích lớn hơn, vừa mất tiền để đổi lấy 5,000 m2 này.

Mức giá đền bù không hợp lý trong khi người dân được đèn bù 34 triệu đồng cho 1 ha đất nhưng khi mua đất ở nơi khác thì 1ha đất lên đến 60 triệu đồng, chưa kể đến tiền giải ngân lại “ì ạch”, đất tăng giá nên khi nhận được số tiền đền bù thì quỹ đất mua được cũng không đáng là bao. Nhiều người dân trong Buôn cho biết, trước đây người dân được công ty cà phê khoán canh tác, chi phí như phân bón, nước tưới đã có công ty cung cấp nên năng suất cây cà phê rất ổn định, nhưng khi được cấp đất canh tác người dân rất khó khăn trong chi phí mua phân bón, nước tưới nên năng suất cây cũng chỉ đành “trời cho chừng nào, ăn chừng đó”, cuộc sống gia đình gặp nhiều khó khăn.

IMG_1957
Nước sinh hoạt đục ngầu, khiến người dân phải mua nước bình để sử dụng, ảnh hưởng đến kinh tế và sức khỏe.

Nhiều vấn đề biết…vẫn cứ lập lại.

Bên cạnh vấn đề đất đai, các vấn đề khác như nguồn nước tưới tiêu và nước sinh hoạt, nhà ở tái định cư, môi trường sống bị ô nhiễm và vấn đề sinh kế cũng tồn tại rất nhiều khó khăn. Theo nhận định của trưởng Buôn Đrai ông Yhai Kbuôr từ khi di dời để xây dựng công trình thủy điện năm 2003 người dân nơi đây đang dần… nghèo đi.

IMG_1872 - Copy
Công trình nhà tái định cư tại Buôn Đrai được xây dựng với chất lượng “không đảm bảo an toàn” cho người ở.

Hứa để … thất hứa.

Trường hợp của thôn Ea Tung – chịu tác động trực tiếp của khu vực lòng hồ chứa nước, nằm cách Buôn Đrai khoảng 1km cũng đang khiến người dân nơi đây mất lòng tin vào những lời hứa nhưng “không bao giờ thực hiện”.

Nhiều lần kiến nghị, nhiều lần phản ánh, nhiều lần kiểm tra, nhiều lần hỏi han, hứa hẹn sẽ giải quyết nhưng mọi thứ vẫn chỉ là sự chờ đợi mỏi mòn của 11 hộ dân sống ven sông. Hằng ngày họ phải sống chung với nỗi lo sợ diện tích đất của gia đình mình sẽ bị dòng nước cuốn đi, ngôi nhà họ đang sống sẽ bị đổ sập, sụt lún vì sạt lở đất, tính mạng của người thân trong gia đình sẽ bị đe dọa vì bệnh đường ruột, mùi hôi thối từ xác chết của động vật, chai lọ thuốc trừ sâu gây ô nhiễm nguồn nước dẫn đến các bệnh ghẻ lở ngoài da… Rất nhiều trường hợp trong thôn phải đi cấp cứu vì bệnh viêm đường ruột và nhiều người phải uống thuốc liên quan đến đường ruột hàng ngày vì sử dụng nguồn nước ô nhiễm. Bao nhiêu sự lo sợ đó vẫn bị bỏ ngoài tai, vẫn chịu sự dửng dưng, thiếu quan tâm từ các cấp chính quyền liên quan.

Từ năm 2009 người dân đã rất nhiều lần gửi đơn khuyến nghị nhưng vấn đề vẫn chưa được giải quyết trong khi cuộc sống của người dân ngày càng khó khăn, đất bị sạt lở khiến người dân hoang mang phải bỏ nhà đang sinh sống làm nhà tạm để sinh sống. Sau những lần gửi đơn thư kiến nghị cũng chỉ là những lời hứa miệng, người dân vẫn không hề có bất cứ một giấy tờ hay bằng chứng pháp lý nào để bảo vệ quyền lợi của chính mình.

Ngôi nhà bị bỏ hoang vì sụt lún, nứt vách không thể ở được của người dân.
Ngôi nhà bị bỏ hoang vì sụt lún, nứt vách không thể ở được của người dân.

Ông Lê Văn Trọng, Chi hội trưởng Hội Nông dân thôn Ea Tung cho biết: “Chính quyền cũng đã đền bù diện tích đất bị sụt lún nhưng cứ với 2ha sụt lún họ chỉ đền 1-1,2ha, còn thì gác lại. Với 1 ha dân được đền bù 100 triệu trong khi để đi mua lại đất canh tác ở nơi khác phải mất 300 triệu, nhiều người còn bị chậm đền bù sau hai năm nên giá  đất thay đổi, có gia đình còn bị tịch thu nhà do thiếu nợ. Chính gia đình tôi phải đi mua đất rẫy ở nơi khác với giá 300 triệu/ha. Cùng với sự mất đất, mất nhà do nước dâng thì hàng ngày người dân còn phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng”.

IMG_2040
Nguồn nước ô nhiễm do rác thải sinh hoạt, xác chết động vật, chất thải nông nghiệp,…từ thượng nguồn trôi về.
IMG_2068
Diện tích đất trồng cây cacao của người dân thôn Ea Tung bị sạt lở.

Qua tìm hiểu thực tế thì nhận thấy rằng chính thủy điện cũng không lường hết được mực nước sẽ dâng đến đâu, bao nhiêu diện tích đất sẽ bị sụt lún khi thiết kế dung tích của hồ chứa. Điều đó cho thấy một sự tắc trách không thể chấp nhận được khi tiến hành công tác ĐTM về xây dựng thủy điện Buôn Kuop.

Bao giờ người dân hết khổ?

Thủy điện Buôn Kuop được xây dựng trên dòng Sre Pok đã làm nảy sinh những tác động về môi trường, xã hội không hề nhỏ. Người dân phản ánh nhưng giải quyết vần đề thì không biết đến bao giờ mới được giải quyết. Họ vẫn phải sống trong khó khăn, thiếu thốn và lo sợ hằng ngày vì chịu tác động của thủy điện Buôn Kuop, những điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của người dân và xa hơn là những thế hệ kế cận. Một lần nữa chúng ta lại thấy, người dân “hy sinh” cho sự phát triển của đất nước để nhận lấy rất nhiều khó khăn về mình. Vậy nên cần sự rõ ràng, dứt khoát hơn trong cách giải quyết vấn đề liên quan đến tác động của thủy điện để đảm bảo việc chia sẻ lợi ích là công bằng với nhiều phía.

Thanh Tâm-Quang Tiến