Vùng nước xuyên biên giới

Các vùng nước xuyên biên giới của các tầng chứa nước, hồ và lưu vực sông được chia sẻ bởi hai hoặc nhiều quốc gia giúp hỗ trợ cuộc sống và sinh kế của rất nhiều người trên thế giới. Trong thời kỳ khan hiếm nước, việc sử dụng hợp lý tài nguyên nước là điều quan trọng để thúc đẩy hợp tác hòa bình và phát triển bền vững.

 

Việc cạn kiệt và suy giảm nguồn cung cấp nước xuyên biên giới có thể gây ra bất ổn xã hội và xung đột trong và giữa các quốc gia. Đối phó với tác động của biến đổi khí hậu kết hợp với nhu cầu tăng trưởng dân số và kinh tế đòi hỏi một cách tiếp cận tổng hợp. Khung siêu quốc gia tổng hợp để quản lý tài nguyên nước xuyên biên giới dựa trên khuôn khổ pháp lý và thể chế với các lợi ích và chi phí chung.

Thách thức và cơ hội

263 lưu vực sông và hồ xuyên biên giới bao phủ gần một nửa bề mặt trái đất. Có 145 quốc gia có lãnh thổ trong các lưu vực và 30 trong số đó nằm hoàn toàn trong các lưu vực sông và hồ. Có khoảng 300 tầng chứa nước xuyên biên giới phục vụ 2 tỷ người sống phụ thuộc vào nước ngầm. Hợp tác hành động quan trọng, đặc biệt là trong các khu vực dễ bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu và vốn đã khan hiếm nguồn nước. Các vùng đất ngập nước xung quanh các hồ và vùng ngập lụt nằm giữa ranh giới quốc gia cung cấp các dịch vụ hệ sinh thái thiết yếu cho các cộng đồng người dân như lương thực, ngăn chặn lũ lụt và xử lý ô nhiễm tự nhiên.

Sự khai thác quá mức các hồ, sông và các tầng chứa nước có thể gây nguy hiểm cho các dịch vụ hệ sinh thái và gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với độ tin cậy và tính bền vững của nguồn cung cấp nước. Những tác động có thể dẫn đến căng thẳng quốc tế. Các tầng chứa nước cạn kiệt cũng có thể gây xâm nhập mặn ở các vùng ven biển và làm tăng nồng độ asen, florua và các chất độc hại khác.

Ngay cả những hành động tích cực cũng có thể gây ra những tác động tiêu cực. Ví dụ, hành động đơn phương của một quốc gia nào đó bằng cách xây dựng các con đập để thích ứng với biến đổi khí hậu có thể làm giảm đáng kể dòng chảy của các con sông ở hạ lưu của một quốc gia khác.

Việc quản lý các vùng nước xuyên biên giới ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của một quốc gia trong và ngoài nước. Do đó, các lĩnh vực phụ thuộc nhiều vào nước như nông nghiệp, công nghiệp, năng lượng, hàng hải, cấp nước và vệ sinh – cần được hợp tác ở cấp siêu quốc gia. Ví dụ, quản lý hiệu quả, hợp tác và phát triển các vùng nước chung và các vùng ngập lũ lân cận có thể thúc đẩy sản xuất lương thực và năng lượng, giúp giảm nghèo và kiểm soát sự di cư từ các khu vực nông thôn ra thành thị.

Quản lý tài nguyên nước xuyên biên giới tạo ra lợi ích cho tất cả mọi người như thương mại quốc tế, thích ứng với biến đổi khí hậu, tăng trưởng kinh tế, an ninh lương thực, cải thiện quản trị và hội nhập khu vực.

Có nhiều lý do để trở nên tích cực. Kể từ năm 1948, 37 cuộc xung đột nghiêm trọng về nguồn nước đã xảy ra, và khoảng 295 hiệp định quốc tế liên quan đến nước đã được đàm phán và ký kết. Trong đó bao gồm công ước của Ủy ban Kinh tế Liên hợp quốc về Tài nguyên nước Châu Âu – một khuôn khổ pháp lý cho hợp tác toàn cầu về nước xuyên biên giới. Ban đầu nó chỉ mở cửa cho các nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu, nhưng kể từ năm 2003, nó đã được mở rộng trên toàn cầu. Tuy nhiên, khoảng 2/3 số sông xuyên biên giới trên thế giới không có khuôn khổ quản lý hợp tác.

Mời bạn đọc thêm tại ĐÂY

Nguồn: UN WATER

 

Nước và đô thị hóa

Nước và đô thị hóa

Các khu vực thành thị trên thế giới dự kiến sẽ chiếm phần lớn sự gia tăng dân số trong bốn thập kỷ tới, cũng như đáp ứng nhu cầu di cư đáng kể từ nông thôn ra thành thị. Phần lớn những người này sẽ sống trong những khu ổ chuột đông đúc và thiếu thốn hay thậm chí là không thể tiếp cận các dịch vụ cấp nước và vệ sinh.

Ảnh: Bình Nguyễn

Hệ thống nước an toàn và công trình vệ sinh hiệu quả sẽ giúp xử lý hiệu quả chất thải của con người sẽ cũng như đảm bảo sự phát triển bền vững ở các thành phố và đô thị. Việc mở rộng các dịch vụ này tới hàng triệu thành phố hiện chưa được bảo vệ sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc tăng cường sức khỏe và an toàn đô thị, bảo vệ các nền kinh tế và hệ sinh thái, đồng thời giảm nguy cơ đại dịch.

Những thách thức 

Lần đầu tiên trong lịch sử, hơn một nửa dân số thế giới sống ở các thành phố và đô thị. Tỷ lệ này dự kiến sẽ tăng lên 2/3 vào năm 2050. Gia tăng dân số đang tăng nhanh hơn ở các khu vực thành thị thuộc các nước đang phát triển, với dân số đô thị tăng từ 3,9 tỷ lên 6,3 tỷ vào năm 2050. Mặc dù tỷ lệ tiếp cận nước và vệ sinh ở khu vực thành thị cao hơn ở khu vực nông thôn, nhưng quy hoạch và cơ sở hạ tầng vẫn chưa theo kịp ở nhiều khu vực.

Ngày nay, 700 triệu cư dân thành phố sống mà không có hệ thống vệ sinh được cải thiện, điều này gây ra một số ảnh hưởng lên sức khỏe và gây ô nhiễm trầm trọng do nước thải. Bên cạnh đó, điều này cũng đã ảnh hưởng đến 156 triệu người khi nguồn cung cấp nước vẫn không được cải thiện.

Cơ hội 

Tuy nhiên, các thành phố mang đến những cơ hội quan trọng để sử dụng nước và quản lý chất thải theo cách tích hợp và bền vững hơn.

Những tác động tích cực của các dịch vụ này, đặc biệt là đối với sức khỏe cộng đồng, đang lan truyền nhanh chóng và có lợi trong các khu định cư đông dân cư ngoài quy hoạch. Ngoài ra, việc sử dụng nước hiệu quả ở các thành phố và tái sử dụng an toàn lượng rác thải sẽ gây ra áp lực cho các hệ sinh thái xung quanh.

Chương trình nghị sự về đô thị mới 

Vào tháng 12 năm 2016, các nhà lãnh đạo thế giới đã thông qua Chương trình Nghị sự Đô thị Mới, đặt ra tiêu chuẩn toàn cầu về phát triển đô thị bền vững và sẽ giúp suy nghĩ lại về quy hoạch, quản lý và cuộc sống ở các thành phố.

Chương trình Nghị sự Đô thị Mới là lộ trình xây dựng các thành phố phát triển thịnh vượng, trở thành trung tâm văn hóa và xã hội đồng thời cam kết bảo vệ môi trường.

Chương trình nghị sự cũng cung cấp  các hướng dẫn để hướng đến các Mục tiêu Phát triển Bền vững và cung cấp nền tảng cho các hành động giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu.

Nguồn: UN WATER

Đọc thêm tại đây – Water and Urbanization

Quyền tiếp cận nước sạch và điều kiện vệ sinh

Quyền tiếp cận nước sạch và điều kiện vệ sinh

Tiếp cận nước và vệ sinh được Liên Hợp Quốc công nhận là quyền cơ bản của con người. Việc thiếu hệ thống vệ sinh và nước sạch ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển của hàng tỷ người, đồng thời có tác động lớn đến việc thực hiện các quyền khác của con người. 

Ảnh: UNICEF Viet Nam\Truong Viet Hung

Người dân là người có quyền và Chính phủ là người có nghĩa vụ cung cấp các dịch vụ về nước và vệ sinh. Người có quyền có thể yêu cầu quyền của mình và người có nghĩa vụ phải đảm bảo các quyền về nước và vệ sinh một cách bình đẳng và không phân biệt đối xử.  

Thách thức và cơ hội 

Luật nhân quyền quốc tế đòi hỏi phải quan tâm đặc biệt đến những người không được hưởng đầy đủ các quyền của họ, điều này đã dẫn đến sự phát triển của “xóa đói giảm nghèo” ở nhiều quốc gia. Nó cũng yêu cầu cam kết hạn chế bất bình đẳng bằng cách giải quyết tình trạng phân biệt đối xử và kỳ thị có thể khiến mọi người không thể tiếp cận với nước và vệ sinh. 

“Phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người” nhấn mạnh sự tương ứng giữa quyền và nghĩa vụ, đồng thời cung cấp khuôn khổ cho các Quốc gia Thành viên và các tổ chức khác để đảm bảo rằng việc tôn trọng nhân quyền được lồng ghép vào các kế hoạch phát triển ở tất cả các cấp. 

Vậy thì các quyền đó là gì và ý nghĩa của chúng như thế nào?  

  1. Mọi người đều có quyền được sử dụng nước cho cá nhân và sinh hoạt chung đầy đủ, liên tục, an toàn, dễ tiếp cận và giá cả phải chăng.  
  2. Quyền được vệ sinh cho phép mọi người tiếp cận các cơ sở vệ sinh an toàn, thuận tiện, giá cả phải chăng và được văn hóa chấp nhận trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, đồng thời mang lại sự riêng tư và đảm bảo phẩm giá. Một đứa trẻ từ Trại tị nạn Za’atari ở Jordan đã giơ cao lá cờ đại diện cho Mục tiêu Phát triển bền vững số 6 – Nước an toàn và Vệ sinh. Ảnh: UNICEF Jordan / badran

Định nghĩa  

“Đầy đủ”: Nguồn nước cho mỗi người phải đầy đủ và liên tục cho việc sử dụng cá nhân và sinh hoạt chung bao gồm nước uống, vệ sinh cá nhân và gia đình, giặt quần áo, chuẩn bị thức ăn,…  

“An toàn”: Nguồn nước sử dụng cho cá nhân và sinh hoạt chung phải an toàn, không chứa vi sinh vật, các chất hóa học và các chất phóng xá nguy hiểm đến sức khỏe con người. Các phương pháp đảm bảo nguồn nước an toàn thường được thẩm định bởi tiêu chuẩn chất lượng nước uống của từng quốc gia hoặc địa phương.    

“Có thể chấp nhận được”: Nước phải có màu, có mùi và có vị có thể chấp nhận được cho mỗi mục đích sử dụng cá nhân hoặc sinh hoạt chung. Tất cả các tiện nghi và dịch vụ về nước phải phù hợp về mặt văn hóa với các yêu cầu về giới tính, vòng đời và quyền riêng tư.  

“Dễ tiếp cận”: Mọi người đều có quyền được hưởng dịch vụ cấp nước và vệ sinh có thể tiếp cận được trong phạm vi hoặc gần hộ gia đình, cơ sở giáo dục, nơi làm việc hoặc cơ sở y tế.  

“Giá cả phải chăng”: Nước, các tiện nghi và dịch vụ nước phải có giá cả phải chăng cho tất cả mọi người.   

Nguồn: UN Water 

Mời các bạn đọc thêm tại đây: Quyền tiếp cận nước sạch và điều kiện vệ sinh

Nước và hệ sinh thái

Nước và hệ sinh thái

Các hệ sinh thái – như rừng, đất ngập nước và đồng cỏ – là một phần quan trọng của vòng tuần hoàn nước trên toàn cầu. Nguồn nước ngọt phụ thuộc vào sự hoạt động lành mạnh của các hệ sinh thái. Việc nhận thức rõ chu trình nước là một quá trình lý sinh luôn là điều cần thiết để quản lý nước bền vững. 

Thách thức và cơ hội

Hệ sinh thái giảm thiểu tác động của lũ lụt và hạn hán.

“Dịch vụ hệ sinh thái” có thể được sử dụng thay thế hoặc bổ sung cho các hệ thống xử lý nước truyền thống để thúc đẩy quá trình xử lý nước thải. Việc lọc nước được thực hiện bởi các hệ sinh thái dưới nước và trên cạn sẽ cung cấp nguồn nước thích hợp cho nước uống, công nghiệp, giải trí và môi trường sống của động vật hoang dã. 

Ảnh: Kevin Cheng  – UN Water

Ngoài ra, các nguồn tài nguyên có trong nước thải, bao gồm nước, chất dinh dưỡng và carbon hữu cơ có giá trị, có thể được sử dụng để trẻ hóa hệ sinh thái trong những trường hợp thích hợp, tăng cường các dịch vụ hệ sinh thái mang lại lợi ích lớn cho các nền kinh tế và xã hội.

Sự thay đổi mô hình đang được tiến hành và hệ sinh thái được coi là một phần không thể thiếu của giải pháp phát triển. Điều này phản ánh các bước thực hiện để quản lý tài nguyên nước tốt hơn và đạt được sự phát triển bền vững.  

Định nghĩa hệ sinh thái 

Hệ sinh thái là một hệ phức hợp gồm các cộng đồng thực vật, động vật và vi sinh vật cũng như môi trường sống của chúng, tương tác với nhau như một đơn vị chức năng.

Một hệ sinh thái bao gồm tất cả các sinh vật sống (như thực vật, động vật và sinh vật) trong một khu vực nhất định, chúng tương tác với nhau và môi trường vô sinh vật (thời tiết, trái đất, mặt trời, đất, khí hậu, khí quyển). Mỗi sinh vật trong hệ sinh thái đều có vai trò và đóng góp vào việc duy trì sức khỏe và năng suất của hệ sinh thái. 

Nguồn: UN WATER

Đọc thêm tại ĐÂY

Nước và thiên tai

Nước và thiên tai

Khi thiên tai xảy ra, nó thường biểu hiện qua nước. Lũ lụt, sạt lở, sóng thần, bão, các đợt nóng, đợt rét, hạn hán và dịch bệnh bùng phát qua đường nước đang trở nên thường xuyên hơn và có cường độ lớn hơn. 

Ảnh: Thanh Tùng – Vietnamnet

Các yếu tố như đô thị hóa không có kế hoạch và sự suy thoái của các dịch vụ hệ sinh thái đã làm trầm trọng thêm tác động và chi phí của những thảm họa  này. Giảm thiểu rủi ro và cải thiện khả năng phục hồi của các dịch vụ nước và vệ sinh là rất quan trọng để duy trì khả năng tiếp cận trong tương lai của biến đổi khí hậu.  

Những thách thức 

Các thiên tai liên quan đến nước gây ra cả tác động trực tiếp (thiệt hại cho công trình xây dựng, cây trồng và cơ sở hạ tầng, cũng như tổn hại về người và tài sản) và tác động gián tiếp (thiệt hại về năng suất và sinh kế, tăng rủi ro đầu tư, nợ nần và ảnh hưởng đến sức khỏe con người).

Sự tăng lên của chi phí kinh tế và số lượng thiên tai là động lực quan trọng để chính phủ và các tổ chức nhân đạo các nước tập trung nhiều hơn vào việc chuẩn bị, ngăn ngừa và giải quyết các nguyên nhân gốc rễ của tình trạng dễ bị tổn thương.

Ảnh: VTV

Cơ hội

Để giải quyết những thách thức đó, đòi hỏi phải có sự đầu tư và thực hiện tốt công tác giảm thiểu rủi ro thiên tai. Mặc dù các nỗ lực phòng chống đã được cải thiện, nhưng việc mở rộng quy mô để đáp ứng các nhu cầu hiện tại và tương lai vẫn là một thách thức.  

Nguồn: UN WATER

Đọc thêm tại ĐÂY

Nước và biến đổi khí hậu

Nước và biến đổi khí hậu

Nước là phương tiện chính mà qua đó chúng ta sẽ cảm nhận được tác động của những biến đổi khí hậu. Tài nguyên nước ở nhiều nơi đang dần trở nên khó lường, lũ lụt gia tăng có nguy cơ de dọa, phá hủy các nguồn nước, công trình vệ sinh và ô nhiễm nguồn nước.

Ở một số khu vực, hạn hán đang làm trầm trọng thêm tình trạng khan hiếm nước và tác động tiêu cực đến sức khỏe, năng suất lao động và sinh kế của người dân. Đảm bảo quyền tiếp cận về nước bền vững và các dịch vụ vệ sinh là một chiến lược nhằm giảm thiểu những biến đổi khí hậu nguy cấp trong những năm tới.

Những thách thức

Nhiệt độ trái đất ngày càng cao và ngày càng khắc nghiệt hơn, điều kiện thời tiết khó có thể dự đoán chính xác,… những yếu tố này sẽ ảnh hưởng đến sự sẵn có của các nguồn nước, sự phân bố lượng mưa, tuyết, các con sông và nước ngầm, và làm suy giảm chất lượng nước. Đặc biệt, các cộng đồng có thu nhập thấp và dễ bị tổn thương nhất trước các mối đe dọa về cấp nước có thể bị ảnh hưởng nặng nề nhất.

Lũ lụt xuất hiện nhiều hơn và hạn hán nghiêm trọng hơn dự đoán. Những thay đổi về nguồn cung cấp nước cũng sẽ ảnh hưởng đến an ninh lương thực và sức khỏe, và đó cũng chính là yếu tố dẫn đến xung đột chính trị, tị nạn xã hội và bất ổn chính trị.

Tác phẩm của nghệ sĩ đường phố – Banksy gần cầu Oval ở Camden, miền bắc Luân Đôn trong Hội nghị thượng đỉnh về khí hậu của Liên hợp quốc ở Copenhagen năm 2009. Ảnh: UN Water

Những cơ hội

Nước đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu và thích ứng với tác động của biến đổi khí hậu. Do đó, quản lý tài nguyên nước, sinh quyển và các dòng chảy môi trường cần được xem xét một cách toàn diện để đưa ra hệ thống kinh tế và nông nghiệp bền vững cho phép chúng ta hạn chế hoặc giảm thiểu tác động của các tác động biến đổi khí hậu.

Thỏa thuận Paris

Thỏa thuận đưa tất cả các quốc gia vào một mục đích chung để thực hiện những nỗ lực đầy tham vọng nhằm chống lại biến đổi khí hậu và thích ứng với các tác động của nó, và thúc đẩy sự hỗ trợ để các nước đang phát triển thực hiện được những thỏa thuận chung. Thỏa thuận này biểu thị một hướng đi mới trong nỗ lực khí hậu toàn cầu. 

Lễ bế mạc Hội nghị Thượng đỉnh về khí hậu COP21 tại Paris, Pháp năm 2015

Nguồn: UNWATER – Water and Climate Change

Truy cập tại ĐÂY 

Nước, Lương Thực và Năng Lượng

Nước, Lương Thực và Năng Lượng

Mối quan hệ chặt chẽ giữa nước – lương thực – năng lượng là trọng tâm của phát triển bền vững. Do sự gia tăng đáng kể về dân số toàn cầu, đô thị hóa cũng như sự thay đổi chế độ ăn uống và phát triển kinh tế nên nhu cầu sử dụng ba loại tài nguyên này ngày càng tăng. Nông nghiệp là ngành tiêu thụ tài nguyên nước lớn nhất thế giới và hơn một phần tư năng lượng sử dụng trên toàn cầu được sử dụng cho sản xuất và cung cấp lương thực.

Mối liên kết chặt chẽ giữa các lĩnh vực thiết yếu này đòi hỏi một cách tiếp cận phù hợp nhằm đảm bảo an ninh nước và lương thực, sản xuất năng lượng và nông nghiệp bền vững trên toàn thế giới.    

Nhu cầu gia tăng 

Nước là một nguồn tài nguyên hữu hạn đáp ứng nhu cầu sử dụng của con người, do đó việc đảm bảo mọi người đều được tiếp cận với nguồn cung ứng nước an toàn là rất quan trọng đối với sự tồn tại và tiến bộ bền vững của nhân loại.   

Ảnh: CSRD

Khi tài nguyên nước ngày càng trở nên dồi dào thì ngành năng lượng và lương thực ngày càng phụ thuộc vào nước. Trên thực tế cả ba ngành này đều là nền tảng của một số Mục tiêu Phát triển Bền vững, điều này nghĩa là các người ra quyết định trong cả ba lĩnh vực này đang tập trung vào quản lý tài nguyên nước và hệ sinh thái; bảo vệ, cung cấp nước và công trình vệ sinh, họ xem đó như là phần của chính sách và thông lệ.  

Năng lượng hỗn hợp 

Sản xuất năng lượng hóa thạch là một ngành đòi hỏi sử dụng nhiều nước, do sản xuất nhiên liệu sinh học và tăng hoạt động khai thác khí đá phiến – hay còn gọi là Fracking – thủy lực cắt phá, vẫn là một phần trọng yếu và đang phát triển trong ngành năng lượng hỗn hợp toàn cầu. Sẽ phải cần nhiều cách thức hỗ trợ hơn nữa trong việc phát triển năng lượng tái tạo sử dụng ít nước, chẳng hạn như thủy điện và gió trước khi có những ảnh hưởng đáng kể đến nhu cầu nước. Ví dụ, năng lượng địa nhiệt có tiềm năng trở thành một nguồn tài nguyên dài hạn, không phụ thuộc vào khí hậu, ít hoặc không tạo khí nhà kính và không tiêu thụ nước.  

Hiệu quả nông nghiệp  

Nông nghiệp có lẽ vẫn là ngành sử dụng nước nhiều nhất vào giữa thế kỷ này. Mặc dù được khuyến khích chuyển đổi sang nhiên liệu sinh học, nhưng việc sản xuất nông nghiệp đòi hỏi sử dụng nước nhiều tương tự như nhiên liệu hóa thạch. Đối với thực phẩm, nhu cầu tiêu thụ cùng với mật độ dân số gia tăng, chúng ta có thể thấy rằng có sự chuyển đổi đáng kể từ chế độ ăn kiêng tinh bột sang tiêu thụ thịt sử dụng nhiều nước và các sản phẩm từ sữa ở nhiều quốc gia có nguồn thu nhập tăng lên. 

Ảnh: CSRD

Các biện pháp hiệu quả trong toàn bộ chuỗi nông sản nông nghiệp có thể tiết kiệm nước và năng lượng như tưới tiêu hợp lý dựa trên thông tin của các nhà cung cấp nước, thúc đẩy nông dân đầu tư vào hệ thống nước của họ để thu lợi nhuận.  

Đáp ứng nhu cầu của các thành phố 

Hầu hết các thành phố phát triển vượt bậc trên thế giới đều nằm ở các quốc gia có thu nhập thấp, nơi các cơ quan công ích bị hạn chế trong việc lập kế hoạch, kiểm soát việc mở rộng và tác động của đô thị đối với nhu cầu nước và năng lượng.  

Có thể giảm mức tiêu thụ nước và cung cấp nguồn nước an toàn hơn bằng các phương pháp như sử dụng nhiều nguồn nước (bao gồm thu hoạch nước mưa và tái sử dụng nước thải), chỉ xử lý nước để sử dụng thay vì xử lý nước theo tiêu chuẩn uống an toàn. Bên cạnh đó cũng có thể loại bỏ chất rắn sinh học trong nước thải và sử dụng để nấu ăn hoặc sưởi ấm thay thế nhiên liệu hóa thạch và giảm khối lượng nước phải xử lý tại nhà máy xử lý nước thải. 

Đảm bảo an ninh lương thực và dinh dưỡng  

Trên toàn cầu vẫn đáp ứng nước để sản xuất lương thực, tuy nhiên tình trạng an ninh lương thực và dinh dưỡng vẫn còn chưa đảm bảo. Hơn nữa, ở những khu vực khả năng tiếp cận với nước sạch và công trình vệ sinh của người dân còn hạn chế thì bệnh tiêu chảy là một yếu tố chính dẫn đến tử vong, suy dinh dưỡng và giảm năng suất ở trẻ em. 

Ở những vùng khan hiếm nước, cần có những chiến lược thiết thực nhằm bảo vệ nguồn nước sẵn có để duy trì sản xuất nông nghiệp và tránh biến động giá lương thực. Những tiến bộ trong di truyền và công nghệ có thể áp ứng nhu cầu một cách hiệu quả nhất và cho phép cây trồng, vật nuôi, sản xuất cá tăng trưởng bền vững.  

Nguồn: UNWATER –  Water, Food and Energy. 

Truy cập tại ĐÂY.

Định giá nước dành cho môi trường

Sáng kiến Đánh giá tài nguyên nước (Valuing Water Initiative – VWI) được đưa ra vào năm 2019 như là kết quả của Hội đồng cấp cao về nước từ Liên hiệp quốc và Ngân hàng Thế giới. Sáng kiến này đưa ra 5 nguyên tắc đánh giá tài nguyên nước nhằm tìm kiến sự thay đổi có tính hệ thống về vai trò của nước trong quá trình ra quyết định, để đảm bảo một thế giới có nguồn nước bền vững. 

—–

Môi trường là trung tâm của vòng tuần hoàn nước và là một phần không thể thiếu trong mọi khía cạnh của quản lý tài nguyên nước. Nước bắt nguồn trong môi trường và cũng trở lại môi trường với những thứ dơ bẩn từ con người. 

Giá trị của môi trường có thể được thể hiện qua vai trò của nó trong khi cung cấp nước cho con người, ví dụ như để uống và sử dụng cho tưới tiêu hoặc công nghiệp, đối phó với các hiện tượng cực đoan như lũ lụt, hoặc góp phần giải quyết vấn đề ô nhiễm. 

Điểm giao giữa môi trường và nước có thể được quản lý một cách chủ động để giải quyết các thách thức liên quan đến nước bằng “các giải pháp dựa vào tự nhiên”. 

Cách tiếp cận này đặt trọng tâm vào quan niệm cho rằng cơ sở hạ tầng tự nhiên có chức năng giống như công trình hạ tầng xây dựng, đem lại các lợi ích quan trọng cho con người như bảo tồn đa dạng sinh học, ngư nghiệp, giải trí và du lịch cũng như giảm chi phí vận hành liên quan đến nước.

Môi trường nên được ghi nhận như một tài sản phải được duy trì và quản lý, liên quan đến nhiều dịch vụ mà nó cung cấp. Việc xác định giá trị môi trường bằng cách tiếp cận dựa vào tiền tệ sẽ đánh giá thấp nước và đối xử với nó như một thứ hàng hóa. 

Vì vậy, các giá trị môi trường nên bao gồm nhiều quan điểm khác nhau về định giá kinh tế, cũng như các niềm tinh văn hóa – xã hội khác. 

Phục hồi nước, dinh dưỡng, kim loại quý và năng lượng từ dòng thải là phương tiện tạo ra giá trị tăng thêm. 

Khoảng 380 tỷ m3 nước có thể được thu hồi từ khối lượng rác thải được tạo ra hàng năm. Hình thức phục hồi nguồn nước này được kỳ vọng sẽ đạt 470 tỷ m3 vào năm 2030 và 574 tỷ m3 vào năm 2050. Ngoài việc lấy lại chất dinh dưỡng và đạt được lợi ích kinh tế, thì nó cũng đem lại các lợi ích môi trường quan trọng như giảm hiện tượng phú dưỡng. 

Nguồn: UNESCO. Valuing water for the Environment. Truy cập tại ĐÂY. 

CSRD nhận Giải thưởng RISK 2021 với dự án “Strong roots, Strong Women”- Gốc rễ bền chặt, phụ nữ quật cường

CSRD nhận Giải thưởng RISK 2021 với dự án “Strong roots, Strong Women”

CSRD tự hào khi đạt được Giải thưởng RISK* năm 2021 của Quỹ Munich Re với dự án mang tên “Gốc rễ bền chặt, Phụ nữ quật cường” với mục tiêu chính là trao quyền cho phụ nữ về tăng cường khả năng chống chịu của cộng đồng và hệ sinh thái ven biển dựa vào các bên liên quan. Hợp tác với công ty UP Transfer GmbH tại Đại học Postdam, Đức, chúng tôi kỳ vọng sẽ thành lập vườn ươm trong rừng ngập mặn do cộng đồng quản lý tại một trong những đầm phá lớn nhất Đông Nam Á và sáng kiến Quỹ cộng đồng đổi mới sáng tạo để hỗ trợ phụ nữ. Ngoài ra, rừng ngập mặn đồng thời tạo ra nhiều lợi ích chung về xã hội, kinh tế và văn hóa, hỗ trợ sinh kế cho các nhóm nghèo và dễ bị tổn thương do phụ thuộc trực tiếp vào tài nguyên thiên nhiên.

Chúng tôi chân thành cảm ơn tất cả những người đã luôn ủng hộ và hỗ trợ để chúng tôi đạt được thành công này.

*Giải thưởng RISK – do Quỹ Munich Re phối hợp với Văn phòng Giảm nhẹ rủi ro thiên tai của Liên hợp quốc (UNDRR) thành lập nhằm giúp cải thiện việc giảm thiểu rủi ro và quản lý thiên tai.

Để biết thêm thông tin về toàn bộ dự án, vui lòng xem thêm ở đây hoặc ở đây

Định giá nước cho hoạt động kinh tế

Sáng kiến Đánh giá tài nguyên nước (Valuing Water Initiative – VWI) được đưa ra vào năm 2019 như là kết quả của Hội đồng cấp cao về nước từ Liên hiệp quốc và Ngân hàng Thế giới. Sáng kiến này đưa ra 5 nguyên tắc đánh giá tài nguyên nước nhằm tìm kiến sự thay đổi có tính hệ thống về vai trò của nước trong quá trình ra quyết định, để đảm bảo một thế giới có nguồn nước bền vững.

Giá trị của nước trong nông nghiệp, công nghiệp, kinh doanh và năng lượng có thể được đánh giá dưới quan điểm kinh tế về đầu vào – đầu ra. Quan điểm này định lượng lợi nhuận hay lợi ích theo nhiều cách, như việc làm, giá trị sản phẩm trên một đơn vị của nước hoặc giá trị tăng thêm của sản phẩm.

Nông nghiệp sử dụng phần lớn (69%) lượng nước ngọt trên toàn thế giới. An ninh lương thực từ lâu đã là một thách thức cho xã hội loài người và sẽ trở thành một vấn đề toàn cầu ngày càng cấp thiết trong các thập kỷ tiếp theo: nhu cầu toàn cầu cho thực phẩm và các nông sản khác được dự báo sẽ tăng 50% từ 2012 đến 2050, do sự gia tăng dân số.

Thêm vào đó, tại nhiều khu vực trên thế giới, nước cho sản xuất lương thực là tác nhân chính của suy thoái môi trường, bao gồm sự cạn kiệt tầng ngậm nước dưới đất, sự suy giảm dòng chảy sông, sự suy thoái môi trường sống của động vật hoang dã, và sự ô nhiễm.

Định giá giá trị nước trong sản xuất lương thực nên cân nhắc không chỉ việc sử dụng nước mang lại lợi ích kinh tế trực tiếp mà còn các lợi ích kinh tế, văn hóa-xã hội hoặc môi trường liên quan đến nước. Những lợi ích gián tiếp này thường không được tính đến. Một vài lợi ích bao gồm việc đạt được an ninh lương thực, cải thiện dinh dưỡng, thích ứng với những thay đổi trong khuôn mẫu tiêu dùng, tạo ra việc làm và cung cấp khả năng phục hồi sinh kế đặc biệt cho nông dân sản xuất nhỏ, đóng góp vào giảm nghèo và tái sinh nền kinh tế nông thôn, hỗ trợ giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu, và cung cấp các dịch vụ nước với nhiều mục đích sử dụng.

Ảnh: Trần Tuấn Việt

Continue reading Định giá nước cho hoạt động kinh tế